Giao tranh tại Ukraine đã bước sang tháng thứ tư và dường như cả Nga và Ukraine đều không có ý định tạo ra bước ngoặt quyết định trên chiến trường. Thay vào đó, cả hai đều kỳ vọng đối phương sẽ suy yếu trong một hình thái chiến tranh tiêu hao.
Trong 4 tháng chiến sự, cả Nga và Ukraine đều phải gánh chịu những tổn thất và vấn đề đặt ra hiện nay là bên nào có khả năng cầm cự, duy trì thế trận lâu hơn. Hay nói cách khác, khi chiến tranh phát triển sang trạng thái xung đột tiêu hao, Nga hay Ukraine sẽ chiếm ưu thế?
Các bên sẽ phải quay lại bàn đàm phán
Một nhân tố quan trọng giúp trả lời câu hỏi chính là khả năng duy trì lực lượng binh sĩ, vũ khí, thiết bị, đạn được ổn định. Đến thời điểm này, Tổng thống Nga Vladimir Putin vẫn từ chối thực hiện lệnh tổng động viên quân dự bị.
Nhưng cũng có dấu hiệu cho thấy Bộ Quốc phòng Nga có thể tuyển dụng đối tượng nam giới có kinh nghiệm, thực tiễn quân sự. Với Ukraine là câu chuyện khác. Khó khăn với Kiev không phải là vấn đề về tuyển mộ binh sỹ mà là không có đủ lực lượng để huấn luyện.
Điều này đặt ra khó khăn với kế hoạch xây dựng hoàn chỉnh 6 lữ đoàn mới, với tổng quân số 25.000 binh sỹ – lực lượng mà giới chức Ukraine cho rằng cần có để mở các cuộc phản công nhằm vào lực lượng Nga và phe đòi độc lập ở miền Đông và miền Nam.
Nhưng nếu chiến tranh kéo dài nhiều tháng, thậm chí là hàng năm – kịch bản mà giới chức Mỹ và châu Âu đang tính đến, vũ khí viện trợ của phương Tây sẽ giữ vai trò thiết yếu.
Mỹ, Australia và nhiều nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đều đã gửi thêm pháo, đạn dược, phương tiện chiến đấu tới Ukraine trong tháng qua, cam kết chuyển giao hệ thống pháo phóng loạt (HIMARS) có tầm bắn xa.
Nhưng tốc độ chuyển giao, sử dụng không thể nhanh được như mong muốn của Ukraine. Lầu Năm góc cho biết cần tối thiểu ba tuần để huấn luyện binh sỹ Ukraine làm chủ và sử dụng thành thạo hệ thống HIMARS.
Ukraine hiện rơi vào tình cảnh cạn kiệt hoặc sắp cạn kiệt nhiều chủng loại đạn dược theo chuẩn từ thời Liên Xô, ông Michael Kofman, chuyên gia đến từ Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS), nhận định. Kho đạn dự trữ tại các nước từng là thành viên khối Warszawa, như Ba Lan, cũng sắp cạn. Nếu quân đội Ukraine có thể chuyển đổi thích ứng sang hệ thống vũ khí chuẩn NATO, các nước phương Tây sẽ có điều kiện để khởi động một chiến dịch trợ giúp dài hơi hơn.
Nhưng nhiều nước châu Âu cũng bắt đầu cạn một số chủng loại vũ khí chuyển giao cho Ukraine, như tên lửa chống tăng. Phải mất nhiều năm mới có thể mở rộng sản xuất, bù đắp vào kho dự trữ đã xuất. Cũng không đơn giản để Ukraine làm chủ vũ khí mới.
Nhiều khẩu đội pháo thuộc diện hàng viện trợ tới Ukraine đã buộc phải chuyển ngược sang Ba Lan để sửa chữa. Trong khi Nga vẫn có ưu thế về vũ khí, hỏa lực.
Trên thực địa, cả Nga và Ukraine đến lúc nào đó sẽ phải giảm giao tranh, có thời gian để hồi phục, xốc lại đội hình. Nhưng rồi sau đó sẽ lại là đối đầu, đụng độ. Nga cho rằng chiến tranh kéo dài sẽ tạo ra rạn nứt ngày càng lớn trong lòng châu Âu và quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Giá nhiên liệu tăng, lạm phát cao, đứt gãy kinh tế sẽ khiến các bên phải vào cuộc đàm phán.
Hệ thống quốc tế thời hậu xung đột
Nhà nghiên cứu Ngô Tâm Bá, Chủ nhiệm Viện Nghiên cứu quốc tế thuộc Đại học Phúc Đán (Trung Quốc), cho rằng cuộc xung đột Nga-Ukraine không chỉ là cuộc xung đột giữa Moscow và Kiev, mà còn liên quan đến những khác biệt, mâu thuẫn và xung đột lớn trong hệ thống quốc tế.
Ngoại trưởng Nga Sergei Lavror đã nói rất rõ rằng chiến dịch quân sự đặc biệt mà Nga thực hiện tại Ukraine là nhằm chấm dứt trật tự thế giới do Mỹ thống trị, đồng thời thúc đẩy sự xuất hiện của một xã hội quốc tế bình đẳng.
Trong khi đó, các phản ứng của Mỹ và phương Tây đối với cuộc xung đột cũng là chưa từng có. Các biện pháp trừng phạt mà Mỹ và phương Tây áp đặt không chỉ nhằm trấn áp Nga trong cuộc xung đột này mà còn nhằm cắt đứt các liên kết thương mại, tài chính, công nghệ và năng lượng giữa phương Tây và Nga, đồng thời tái thiết nền kinh tế-thương mại và hệ thống quản trị toàn cầu.
Vì vậy, dù là Nga hay Mỹ, mục tiêu của họ trong cuộc xung đột này đều mang tính hệ thống.
Hiện có sự cộng hưởng giữa cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung và các biện pháp trừng phạt Nga. Hệ thống quốc tế hậu Chiến tranh Lạnh là một nỗ lực nhằm vượt qua địa chính trị và hệ tư tưởng, nhưng kể từ khi cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, Washington đã tái ưu tiên các yếu tố địa chính trị và ý thức hệ trong chính sách đối ngoại, tập trung nhiều vào địa chính trị và cái gọi là “giá trị quan” trong quan hệ với Bắc Kinh hơn là toàn cầu hóa và thị trường. Do đó, việc Mỹ tiếp tục cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc và áp dụng các biện pháp trừng phạt Nga đã thúc đẩy hoặc làm trầm trọng thêm 4 xu hướng lớn.
Thứ nhất là “vũ khí hóa” sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế thể hiện ở thị trường, công nghệ, tài chính… và là kết quả của các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay chúng được phương Tây sử dụng như một vũ khí quan trọng để chống lại Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác (như Iran, Triều Tiên…).
Thứ hai là “an ninh hóa” các quan hệ kinh tế. Logic của toàn cầu hóa là logic thị trường, tức là sắp xếp đầu tư, sản xuất và tiêu thụ trên quan điểm tối đa hóa lợi ích kinh tế.
Nhưng ngày nay, Mỹ và một số nước phương Tây ngày càng chú ý nhiều hơn đến khía cạnh an ninh của các mối quan hệ kinh tế, bất kể là công nghệ, đầu tư hay bố trí dây chuyền công nghiệp, điều được quan tâm đầu tiên là vấn đề an ninh. Việc “an ninh hóa” các quan hệ kinh tế đã làm suy yếu, thậm chí đảo ngược logic của toàn cầu hóa.
Thứ ba là “công cụ hóa” hàng hóa công cộng quốc tế. Đồng USD, cũng như hệ thống thanh toán quốc tế dựa trên đồng USD, đã trở thành một phần của hàng hóa công cộng quốc tế, về lý thuyết, nó vẫn mang tính chất công cộng, nhưng hiện ngày càng được Mỹ sử dụng như một công cụ chính sách đối ngoại.
Và cuối cùng là “tư tưởng hóa” các quan hệ quốc tế, hay còn được gọi là “giá trị quan hóa” theo thuật ngữ phương Tây. Quan hệ quốc tế ngày nay ngày càng được xếp theo thứ tự gọi là “giá trị quan”. Đương kim Tổng thống Mỹ Joe Biden gần đây đã đến châu Á để quảng bá “chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, và một trong những ngọn cờ chính mà ông thúc đẩy là “giá trị quan”.
Trong bối cảnh đó, hệ thống kinh tế-thương mại toàn cầu, hệ thống quản trị toàn cầu và hệ thống quan hệ quốc tế đều đang có những thay đổi quan trọng. Thay đổi đầu tiên là quá trình chuyển đổi từ toàn cầu hóa kinh tế sang tập đoàn kinh tế.
Thế giới đang dần bị phân chia thành các khối thương mại, công nghệ và tiền tệ khác nhau. Không chỉ phương Tây, đặc biệt là Mỹ, “loại bỏ Trung Quốc” về thương mại, công nghệ, đầu tư, chuỗi công nghiệp…, mà nhiều nước trên thế giới cũng “loại bỏ đồng USD” trong lĩnh vực tiền tệ.
Các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với Nga khi sử dụng đồng USD làm vũ khí có thể gây áp lực đối với Nga trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài, nó sẽ làm suy yếu tín dụng quốc tế đối với đồng USD khiến nhiều nước cân nhắc giảm sự phụ thuộc vào USD.
Thay đổi tiếp theo là sự suy yếu, thậm chí là chia rẽ, của hệ thống quản trị toàn cầu. Hợp tác trong quản trị toàn cầu vốn đã vượt ra ngoài địa chính trị và ý thức hệ, nhưng Mỹ hiện ngày càng đưa các yếu tố địa chính trị và ý thức hệ vào các nền tảng này, điều này sẽ làm suy yếu chức năng của hệ thống quản trị toàn cầu, thậm chí dẫn đến một mức độ phân mảnh nhất định của hệ thống.
Thay đổi thứ ba là tổ chức lại các mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc chơi quốc tế xoay quanh cuộc xung đột Nga-Ukraine, cho dù đó là nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) lên án Nga, hay phương Tây tung ra các biện pháp trừng phạt chống lại Nga, hoặc đình chỉ tư cách thành viên của Nga trong Hội đồng Nhân quyền LHQ thì đó đều là sự chia rẽ của cộng đồng quốc tế, và nó rất nghiêm trọng.
Tín hiệu mà nó truyền đi là sự hợp tác và đồng thuận trong các mối quan hệ quốc tế ngày nay đang phai nhạt, và thế giới ngày càng bị chia thành hai phe đối lập và một phe trung gian. Phe trung gian không muốn chọn phe, mà áp dụng một thái độ thực dụng theo chiều hướng vấn đề, có những lập trường khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Xu hướng này sẽ kéo dài trong bao lâu?
Nó không chỉ phụ thuộc vào cách Mỹ và phương Tây đối xử với Nga mà còn cả cách họ đối xử với Trung Quốc.
Mặc dù Nga muốn chấm dứt bá quyền của Mỹ, nhưng xét từ khía cạnh năng lực và định hướng chính sách, Nga nhiều khả năng chỉ có thể làm suy yếu sự thống trị bá quyền của Mỹ, nhưng để hình thành một hệ thống quốc tế bình đẳng hơn, có thể sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các lựa chọn và hành động của Trung Quốc và các nước đang phát triển.
Lifehub tổng hợp
Nguồn bài viết