Gần đây, dư luận đang bàn tán xôn xao về nghi vấn sách Tiếng Việt lớp 1 thuộc bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” của Nhà xuất bản Giáo dục có giới thiệu nhưng không dạy chữ “p”, “q”. Hàng loạt các vần khó như “oang”, “uyt”, “oao”, “uyu”… cũng không có trong hệ thống các bài về học vần mà chỉ được giới thiệu đến khi học sinh gặp từ có các vần này trong các bài đọc ở cuốn Tiếng Việt lớp 1 tập 2.
Bức xúc vì sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 1 – bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” không dạy chữ P độc lập, nhà giáo Đào Quốc Vịnh, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành (TP Hà Nội), đã gửi thư ngỏ tới Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Nguyễn Kim Sơn vì cho rằng “sai sót này là không thể chấp nhận được”.
Ảnh hưởng tới việc học tập
Trong thư phản ánh sách Tiếng Việt 1 – bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” không dạy chữ P độc lập, nhà giáo Đào Quốc Vịnh cho biết theo phản hồi tới ông của chủ biên SGK Tiếng Việt 1 trong bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống“, sách này có dạy chữ P khi nó kết hợp với H tạo thành PH đọc là “phờ”, chưa dạy chữ P khi đứng trước các nguyên âm vì rất ít từ tiếng Việt có chữ P đứng trước các nguyên âm, nếu có thì là từ ngoại lai.
Theo nhà giáo Đào Quốc Vịnh, SGK cho học sinh (HS) phổ thông, nhất là cấp tiểu học, phải có tính phổ quát tới 54 dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, chứ không phải chỉ dạy riêng cho HS người Kinh. “Sai sót này là không thể chấp nhận được vì nó ảnh hưởng tới việc học tập của con em đồng bào các dân tộc. Bộ GD-ĐT và các cơ quan hữu trách cần vào cuộc yêu cầu Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam, cụ thể là Tổng chủ biên bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống“, cần bổ sung ngay việc dạy chữ P, đưa nó trở lại mục lục của cuốn sách, ngang bằng với các chữ cái khác trong bộ chữ cái tiếng Việt đã được pháp luật quy định” – nhà giáo gửi ý kiến đến Bộ trưởng Bộ GD-ĐT.
Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tô Hiến Thành cũng nêu thống kê nhanh những địa danh, tên người cụ thể có chữ P đứng trước nguyên âm và khẳng định đó không phải là những từ ngoại lai. Ví dụ ở Lai Châu có các xã Pa Ủ, Pa Vệ Sử, Pa Tần, Pu Sam Cáp, Pa Khóa, Pa Vây Sử, Pắc Ta, Pú Đao, Nậm Pì. “Hy vọng Bộ trưởng sớm chỉ đạo việc này để các cháu người dân tộc được học chữ P một cách danh chính ngôn thuận bằng hướng dẫn ngay trong SGK, vừa không gây khó cho giáo viên vừa giúp HS học xong lớp 1 biết đọc tên xã, tên trường, tên cha mẹ mình, thậm chí chính tên mình. Chưa kể tên một số dân tộc cũng có chữ P trước một nguyên âm nên việc không dạy chữ P và âm “pờ” là một lỗi nghiêm trọng, vi phạm các quy định của pháp luật đã ban hành kèm theo bảng chữ cái của tiếng Việt” – nhà giáo Đào Quốc Vịnh nêu ý kiến. Quan điểm của nhà giáo Đào Quốc Vịnh nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà văn và đồng nghiệp.
Tổng chủ biên bộ SGK Tiếng Việt lớp 1: Hoàn toàn có dạy chữ “P”
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên sách giáo khoa sách giáo khoa Tiếng Việt 1, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống đã có phản hồi với báo chí sau khi dư luận xôn xao về việc các âm “P”, “Q” và một số vần khó không được dạy thành các bài độc lập trong sách giáo khoa.
Ông Hùng khẳng định tất cả các sách giáo khoa đều phải đạt được mục tiêu học sinh biết đọc, biết viết sau khi học xong, tuy nhiên các sách khác nhau có thể có những cách khác nhau.
Chủ biên SGK Tiếng Việt 1, khẳng định sách có dạy chữ P (pê), âm đầu và âm cuối P (pờ) (ghi bằng chữ P). Theo ông Hùng, bảng chữ cái trong SGK Tiếng Việt 1 – bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” có đầy đủ 29 chữ cái theo quy định của Bộ GD-ĐT (trang 12, tập một). Đây là quy định “cứng”, không có bất kỳ bộ SGK nào dám thay đổi và không có lý do gì để thay đổi. Ở nhiều bài học trong bộ sách này, HS được học và luyện viết chữ P qua ngữ liệu là những từ như đèn pin, cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen… (trang 78, 118, 120, 124… tập một). Ở tập hai, trong các văn bản đọc thì số các từ có chữ P không thể tính hết. Vì vậy, ý kiến cho rằng Tiếng Việt 1 không dạy chữ P là hoàn toàn không có cơ sở.
Cũng theo ông Hùng, trong tiếng Việt, âm “P” xuất hiện chủ yếu là cuối âm tiết, trong một số trường hợp, xuất hiện đầu âm tiết. Trường hợp âm “P” ở cuối âm tiết, ông Hùng cho rằng qua các loạt bài dạy vần ở tập một như ap, ăp, âp (trang 118); op, ôp, ơp (trang 120); ep, êp, ip, up (trang 124)… và những từ như đã nêu ở trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) cho thấy sách Tiếng Việt 1, bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” có dạy âm “P” và dạy nhiều.
Trường hợp âm “P” là âm đầu các bộ sách có thể có những cách dạy khác nhau. Cách thứ nhất là dạy âm đầu “P” trong bài dạy âm “PH”. Trước khi học âm “PH”, các em được luyện đọc âm “P”, chứ không học âm “P” riêng và không có từ ứng dụng riêng cho âm đầu “P”.
Cách thứ hai là dạy âm P riêng và đưa những từ ứng dụng như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô để học sinh tập đọc và phát triển vốn từ.
“Chúng tôi chọn cách thứ nhất. Đây cũng là cách quen thuộc ở các nhà trường trong nhiều năm qua.” ông Hùng nói.
Giải thích về lựa chọn này, ông Hùng cho hay: âm “P” và “PH” đều được học trong phần âm, ở khoảng tuần 5 hoặc tuần 6 của lớp 1. Nếu dạy âm “P” riêng thì cần phải có “từ ứng dụng” để học sinh tập đọc và phát triển vốn từ. Những từ này chỉ chứa các âm tiết mở (bộ phận vần chỉ có 1 nguyên âm), nghĩa là buộc phải dùng những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,….. Không thể dùng các từ như Sa Pa, Nậm Pì,… vì hai lý do: học sinh chưa được học âm “S” (trong Sa Pa) và vần “ÂM” (trong Nậm Pì) và thông thường tên riêng không được dùng ở phần dạy phát triển vốn từ. Theo ông Hùng, học sinh mới chỉ được học 5 – 6 tuần mà phải đọc và hiểu nghĩa của những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,…. là không phù hợp vì không quen thuộc.
Về việc các vần khó không được dạy thành bài riêng, ông Hùng cho rằng đây là những vần hiếm gặp nên luôn được bố trí dạy sau các vần đơn giản và thông dụng.
Tổng chủ biên sách Tiếng Việt lớp 1 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” cho rằng việc dạy các vần này thành các bài riêng sẽ tốn thời gian và không hiệu quả bằng cài vào các bài đọc, giới thiệu các vần khó với học sinh thông qua các bài đọc với các từ ngữ cụ thể.