Rạn nứt đã xuất hiện trong nội bộ NATO khi các nước thành viên thảo luận về cách tăng cường sự hiện diện của khối ở Đông Âu sau chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga.
Trong khi tình hình tại Ukraine vẫn đang diễn biến căng thẳng, các nước thành viên NATO lại đang đối mặt với một vấn đề gây chia rẽ mới liên quan tới cách tăng cường sự hiện diện quân sự của khối ở khu vực Đông Âu. Theo đó, những bất đồng được đưa ra xoay quanh nguy cơ cuộc xung đột lan ra những khu vực thuộc lãnh thổ liên minh.
Các cuộc tranh luận dựa trên những bài học khác nhau đã được các quốc gia NATO rút ra sau gần 3 tháng chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga ở Ukraine. Trong đó, các quốc gia vùng Baltic và Ba Lan đang đề nghị NATO tăng cường sự hiện diện quân sự và các khả năng phòng thủ như phòng không. Tuy nhiên, những quốc gia châu Âu khác, từ Pháp tới Italy, lại không đánh giá cao mối đe doạ cuộc xung đột Nga – Ukraine sẽ sớm lan ra lãnh thổ các nước NATO.
Được biết, các nước NATO cần đạt được sự thống nhất ban đầu trước tháng 6, thời điểm các nhà lãnh đạo gặp nhau tại hội nghị thượng đỉnh ở Madrid (Tây Ban Nha). Cuộc họp này dự kiến sẽ giải quyết nhiều vấn đề, bao gồm cả việc chấp thuận đơn xin gia nhập khối của Phần Lan và Thuỵ Điển, trong bối cảnh Thổ Nhĩ Kỳ và Croatia có động thái phản đối. Theo Washington Post, bản thân việc mở rộng này cũng sẽ làm gia tăng đáng kể sức mạnh quân sự của NATO.
Mong muốn của các nước vùng Baltic và Đông Âu
Một bản đề xuất mật từ các quốc gia Baltic gồm Lithuania, Latvia và Estonia mà Washington Post thu thập được cho rằng “không thể loại trừ khả năng các lực lượng Nga tấn công trực tiếp vào các đồng minh NATO”. Cũng trong tài liệu này, các nước Baltic đề xuất một đội quân quy mô sư đoàn khoảng 20.000 quân tới từng quốc gia nếu họ bị đe dọa.
Các nhà lãnh đạo NATO ở khu vực Đông Âu thì nói rằng phản ứng một cách im lặng sẽ là một sai lầm chiến lược. Việc tăng cường sự hiện diện quân sự đã được đưa ra bàn bạc trong cuộc họp cuối tuần ở Berlin (Đức) giữa các ngoại trưởng NATO. Theo đó, những quan chức này đã thống nhất sẽ tiếp tục thảo luận thêm về vấn đề này trước hội nghị thượng đỉnh Madrid. Các quan chức Đông Âu đã trông thấy một “cửa sổ hẹp” để các cam kết được đảm bảo. Họ lo ngại rằng sự ủng hộ từ Tây Âu sẽ giảm sau khi xung đột Ukraine kết thúc.
Một quan chức giấu tên chia sẻ: “Sau khi xung đột kết thúc, những người đồng cấp của chúng tôi ở khu vực Tây Âu sẽ mong muốn đưa mọi thứ trở lại nguyên trạng. Những tuyên bố và tinh thần chung có được bây giờ sẽ biến mất. Chúng tôi không thích điều này vì chúng tôi đã thấy sự thay đổi của cấu trúc an ninh châu Âu. Chúng tôi tin rằng sẽ không thể trở lại như trước được nữa”.
Trong khi hầu hết các quốc gia Đông Âu không cho rằng Nga sẽ tấn công họ nhưng họ mong muốn một lực lượng mạnh hơn được triển khai đến khu vực để đảm bảo an ninh và ngăn chặn các hành động gây hấn trong tương lai.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Czech Jan Havranek cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Chúng tôi phải phản ánh những lo ngại về an ninh của các đồng minh”.
Đất nước của ông đã tình nguyện dẫn đầu một tiểu đoàn NATO mới ở nước láng giềng Slovakia, quốc gia mới dễ bị tổn thương vì có chung biên giới với Ukraine. Ông nói, sự sẵn sàng của NATO “cần được mở rộng và phù hợp với tình hình an ninh hiện tại”.
Các nước Đông Âu khác, bao gồm Ba Lan, cũng mong đợi một đội quân lớn của NATO, bao gồm hàng chục nghìn binh sĩ và các đơn vị “quân sư”, sẽ cung cấp hệ thống phòng không và các biện pháp bảo vệ khác.
Theo kế hoạch của Baltic, một bộ phận binh lính sẽ không đóng quân thường trực ở mỗi quốc gia nhưng trang bị của họ sẽ được bố trí trước ở đó và NATO sẽ cử hàng nghìn lực lượng bổ sung túc trực tại mỗi quốc gia trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Theo đề xuất mà Washington Post thu được, chỉ có khoảng một lữ đoàn quân đội NATO – tương đương khoảng 6.000 quân – sẽ trực chiến ở mỗi quốc gia, tăng so với khoảng 2.000 người trước 2 vừa qua.
Các nước Tây Âu và Mỹ nghĩ gì?
Các quốc gia khác có thái độ thận trọng hơn về những cam kết ở Đông Âu, đồng thời cảnh giác với việc thoả thuận về những kế hoạch triển khai quân sự lớn gây tốn kém và dẫn đến việc phải chuyển giao lực lượng từ các khu vực khác đi.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhận xét: “Chúng ta cần nhớ rằng chúng ta cần xây dựng hoà bình vào ngày mai”.
Ngoài ra, ông chủ Điện Elysee cũng cho rằng không nên thực hiện những hành động khiến quan hệ với Nga có thể hoàn toàn bị cắt đứt và không thể nối lại trong tương lai. Tổng thống Macron nói thêm: “Chúng ta sẽ cần làm việc với cả Ukraine và Nga trên bàn đàm phán. Kết quả của các cuộc thảo luận và đàm phán sẽ do Ukraine và Nga quyết định. Nhưng những thoả thuận này sẽ không được thực hiện với sự phủ nhận, loại trừ lẫn nhau”.
Trong một tuyên bố riêng biệt trên Twitter, ông Macron nhấn mạnh: “Chúng tôi không gây chiến với Nga”.
Các quan chức Mỹ cũng có sự đồng tình nhất định về việc không nên để các nước thành viên NATO ở Đông Âu chịu đựng một cuộc tấn công, nếu xảy ra, cho đến khi quân tiếp viện của liên minh được triển khai đến. Tuy nhiên, việc đóng quân thường xuyên với số lượng lớn như đề xuất là tốn kém và khó thực hiện.
Thay vào đó, họ thích thiết lập các điều kiện bao gồm chuyển giao trước thiết bị, lựa chọn trước các đơn vị hải quân và một cơ cấu chỉ huy mới. Điều đó sẽ cho phép NATO nhanh chóng mở rộng quy mô, có khả năng đến những con số được đưa ra bởi các quốc gia thành viên dễ bị tổn thương nhất.
Tướng Mark A. Milley, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, nói với các nhà lập pháp vào tháng 4 rằng ông ủng hộ việc thiết lập các căn cứ thường trực với quân đội được triển khai tạm thời ở Đông Âu, “vì như vậy sẽ có được hiệu quả lâu dài” mà không phải chịu chi phí quá cao.
Chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tăng lực lượng quân đội của mình ở châu Âu từ khoảng 60.000 người lên hơn 100.000 người để đối phó với việc Nga xây dựng và mở chiến dịch quân sự ở Ukraine. Tuy nhiên, nhiều binh sĩ trong số đó đang sống trong điều kiện không ổn định như phải ngủ trên cũi trong doanh trại tạm bợ.
Các nước Đông Âu cũng đang thúc đẩy NATO chính thức từ bỏ Đạo luật thành lập NATO-Nga, một thỏa thuận năm 1997 hạn chế việc triển khai liên minh thường trực ở phía đông nước Đức để đổi lấy cam kết duy trì hòa bình của Nga. Tuy nhiên, theo các quan chức ở Tây Âu và Mỹ, thoả thuận này vẫn được xem phương tiện hữu ích để duy trì sự phối hợp trong tương lai giữa NATO và Nga và khẳng định khối này đã đủ mạnh để tự phòng thủ. Đòng thời, thoả thuận này cũng sẽ củng cố sự ổn định vì thể hiện ý định của NATO là không bao giờ bố trí vũ khí hạt nhân ở Đông Âu.
Ngoài ra, liên minh cũng đang có nhiều vấn đề khác cần quan tâm, bao gồm khủng bố và các cuộc di cư bất thường qua Địa Trung Hải, những vấn đề có tác động nhiều tới các đất nước ở xa Nga nhưng gần Bắc Phi hơn là Italy và Tây Ban Nha. Một quan chức Tây Âu nhận xét: “Chúng tôi không cho rằng chúng ta cần trở lại thời phòng thủ và răn đe sau xung đột Ukraine”.
Ông Ivo Daalder, cựu đại sứ Mỹ tại NATO cho biết việc Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO có thể thúc đẩy đáng kể an ninh liên minh ở Bắc Âu, đưa một yếu tố mới vào các cuộc thảo luận giữa các nhà lãnh đạo khi các nước Baltic và các thành viên khác ở phía Đông Âu thúc đẩy yêu cầu răn đe.
Ông Daalder cho rằng các nhà lãnh đạo NATO họp tại Madrid có thể sẽ đưa ra một tuyên bố chung liên quan đến cam kết tăng cường khả năng răn đe và cơ sở hạ tầng phòng thủ ở Đông Âu, sau đó sẽ là các cuộc thảo luận về các chi tiết và việc phân bố lực lượng cụ thể.
Ông lưu ý rằng ngay cả lời hứa phát triển các đường sắt liên kết tốt hơn và cơ sở hạ tầng khác có thể giúp NATO phản ứng nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp cũng sẽ là một bước tiến quan trọng.
Ông nhận xét: “Tôi nghĩ rằng sẽ có một cam kết cơ bản để tăng cường đáng kể sự hiện diện của NATO ở sườn phía Đông, bao gồm các tài sản trên không, trên bộ và trên biển. Đây là điều quan trọng vì NATO chưa bao giờ nói tới vấn đề đó. Đó là một sự thay đổi lớn trong chính sách của NATO”.
Lifehub tổng hợp
Nguồn bài viết