Ngày nay, socola đã trở nên phổ biến và quen thuộc với con người, tương tự như kẹo. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó sâu xa hơn nhiều.
Nguồn gốc lịch sử
Theo nhà báo Anh Tom Metcalfe, thông tin về người phát minh ra cách làm socola đã bị thất lạc theo thời gian, nhưng các bằng chứng có được cho thấy đó là một người sinh sống tại Nam Mỹ cách đây hàng nghìn năm về trước.
Bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng cacao – hạt được sấy khô và lên men của cây Theobroma Cacao Nam Mỹ, có niên đại khoảng 5.300 năm trước – đến từ địa điểm khảo cổ Santa Ana (La Florida) ở đông nam Ecuador.
Theo nghiên cứu đăng trên tạp chí Nature Ecology & Evolution năm 2018, phát kiến về việc sử dụng cacao được cho là thuộc về nền văn hóa Mayo-Chinchipe. Tuy nhiên, có khả năng loại cây này đã được người dân Nam Mỹ tận dụng từ rất lâu trước đó.
Socola mà người Nam Mỹ bản địa pha chế có sự khác biệt lớn với socola mà hầu hết mọi người đang thưởng thức ngày nay. Để làm socola, các hạt cacao được lên men, sau đó được sấy khô, làm sạch và rang. Vỏ hạt được loại bỏ để tạo ra cacao ngòi – một loại socola dạng thô.
Tiếp đó, cacao ngòi được nghiền nhỏ, đun chảy, cho ra thứ gọi là socola lỏng. Socola lỏng có thể được trộn với các thành phần khác để tạo ra socola thành phẩm hoặc có thể được sử dụng để tạo ra bột cacao và bơ cacao.
Thức uống cacao truyền thống được tạo ra bằng cách thêm cacao ngòi xay vào nước và thường có vị đắng.
Phần đường trong thịt quả cacao cũng có thể được lên men thành đồ uống có cồn. Nghiên cứu năm 2013 trên tạp chí Nutrients cho biết, hỗn hợp sủi bọt này từng được coi là thuốc kích thích tình dục và được giới thượng lưu trong xã hội cổ đại đánh giá cao.
Theo một phân tích của Đại học Boston, tộc người Olmec – sinh sống ở phía nam khu vực gọi là Mexico ngày nay trong khoảng 1.500 – 400 năm trước Công nguyên – coi cacao như một món quà của các vị thần, giúp kết nối người thợ phụng với thánh thần.
Cacao được trồng gần như khắp Trung và Nam Mỹ vào đầu thế kỷ 16 sau Công nguyên. Hiện nay loài cây này được trồng ở các vùng nhiệt đới trên khắp thế giới.
Cameron McNeil – Phó giáo sư nhân chủng học tại Đại học Lehman (Thành phố New York), đồng thời là một nhà thiên cổ học, cho biết xuất xứ thực sự của cacao nằm ở lưu vực sông Amazon.
Con người đã đặt chân đến cực nam của Nam Mỹ vào khoảng 14.500 năm trước nhưng không biết chính xác khi nào những người đầu tiên đặt chân đến Amazon.
Bà McNeil cho biết, thức uống cacao thời kỳ đầu không giống như socola nóng ngày nay, nó thậm chí còn khá đặc.
“Tôi đã đi khắp Mesoamerica (Trung Bộ châu Mỹ cổ đại) để uống thử cacao truyền thống, thức uống này ấm, nhưng không nóng“, bà McNeil nói.
“Một số công thức pha chế đồ uống cacao ở Mesoamerica còn sử dụng ớt để tạo vị cay, ví dụ như thức uống xocolatl của người Maya và Aztec – đây là nơi khởi nguồn từ tiếng Anh ‘chocolate’ (socola) – nhưng không ai biết về người đã nghĩ ra công thức cho ớt vào những loại đồ uống cổ xưa này” – Vị Phó giáo sư cho biết thêm.
Một trong những lý do khiến cacao trở nên phổ biến là nó có chứa caffeine – chất kích thích cũng được tìm thấy trong cà phê. Tuy nhiên, đối với người Mỹ cổ đại, sự kích thích từ cacao có phần tinh tế, nhẹ nhàng nhưng lại tiếp thêm sinh lực.
Hơn nữa, trong khi nhiều chất kích thích khác được tìm thấy ở Nam Mỹ thì cacao là chất kích thích duy nhất có thể bắt gặp ở Mesoamerica. Đó cũng là lý do khiến nó được đón nhận rộng rãi và nồng nhiệt.
Sự ra đời của các loại socola
Từ thế kỷ 16, socola được du nhập đến châu Âu như một thức uống, và nhanh chóng trở thành biểu tượng của sự sang trọng. Các thanh socola – thứ mà hầu hết chúng ta liên tưởng tới khi nghĩ về socola – là phát minh của công ty J.S. Fry and Sons vào năm 1847.
Năm 1795, Joseph Storrs Fry được cấp bằng sáng chế phương pháp nghiền hạt cacao bằng động cơ hơi nước. Các con trai của ông sau đó đã kết hợp bột cacao, bơ cacao và đường để tạo thành một thanh socola đặc, đưa sản phẩm này trở nên phổ biến ở châu Âu.
Về sau, công ty J.S. Fry and Sons đã tung ra thị trường một số sản phẩm socola, trong đó có socola trứng Phục sinh đầu tiên vào năm 1873. Sau đó, các công ty như Cadbury và Rowntree’s đã giúp phổ biến sản phẩm này này ra khắp Vương quốc Anh và hơn thế nữa.
Người Thụy Sĩ đặc biệt yêu thích loại socola mới, và vào những năm 1870, công ty Netstlé của Thụy Sĩ đã sử dụng sữa bột để cho ra đời thanh socola sữa đầu tiên.
Các thanh socola sữa sản xuất hàng loạt đầu tiên được bán ở Mỹ vào năm 1900, và trở nên phổ biến tại quốc gia này trong những năm 1920, khi thói quen ăn vặt phát triển mạnh do việc uống rượu dần bị hạn chế.
Những người sành ăn socola ngày nay có thể tìm thấy nhiều loại socola phù hợp với khẩu vị của mình: Từ socola sữa ngọt dẻo, cho tới socola đen giòn với vị đắng 80% hoặc 90%, thậm chí có cả socola không đường với 100% cacao.
Lifehub tổng hợp
Nguồn bài viết