Trước khi có khoa học hiện đại, suy luận và logic là công cụ tốt nhất để giải thích hay suy đoán những điều về Trái Đất.
Nhân loại đôi khi nhìn thế giới với con mắt khác nhau dựa trên kiến thức mà chúng ta có. Nếu một đứa trẻ sinh ra không có kiến thức về Trái Đất và nó được dạy rằng hành tinh của chúng ta phẳng thì chúng không có lý do gì để nghi ngờ về những điều đó. Tuy nhiên, sự tò mò của chúng ta lại là điều thúc đẩy nhân loại hướng tới sự giáo dục từ khi còn rất nhỏ, không chỉ về nguồn gốc của con người mà còn về hành tinh mà chúng ta đang sinh sống.
Dựa trên những ghi chép lịch sử từ các nhà nghiên cứu và thám hiểm Trái Đất ban đầu, nhân loại đã tích lũy được kiến thức cho phép chúng ta biết được kích thước, hình dạng và các nguồn tài nguyên có sẵn trên hành tinh của chúng ta.
Trong hai thế kỷ qua – kỷ nguyên khám phá hiện đại, không có nhiều người mạo hiểm trực tiếp khám phá những ngóc ngách vẫn còn bị che khuất của hành tinh xanh. Điều này là do việc khám phá không chỉ tốn nhiều thời gian và nguồn lực mà còn là một công việc khá rủi ro.
Chúng ta đang tiến hành khai phá Sao Hỏa trong khi vẫn còn nhiều địa điểm chưa được khám phá trên Trái Đất hoặc những nơi đã bị mất tích theo thời gian. Chúng ta không biết thứ gì nằm dưới đáy đại dương và cái hố sâu nhất mà chúng ta đào trong vỏ Trái Đất chỉ sâu 12,2 km. Do đó vẫn còn rất nhiều ẩn số mà nhân loại chưa kịp tìm hiểu.
Trong nhiều năm, mọi người không thực sự thắc mắc nhiều về những gì bên trong Trái Đất và điều này là do họ luôn phải đối mặt với những vấn đề lớn hơn như chiến tranh, nạn đói hoặc đại dịch. Và những điều kỳ diệu đã được đưa ra bởi các nhà địa chất ban đầu nhưng nó không bao giờ thu hút sự chú ý của công chúng.
Mãi đến cuối thế kỷ 19, kỳ quan này mới được công chúng chú ý và nó không chỉ nhận được sự ủng hộ của công chúng mà thậm chí còn được sự ủng hộ của các nhà khoa học, chính trị gia và các nhà lãnh đạo thế giới.
Ý tưởng đằng sau lý thuyết là Trái Đất thực sự rỗng bên trong và nó bao bọc bởi nhiều đất và nước hơn trên bề mặt, với một hệ sinh thái riêng biệt được duy trì bởi Mặt Trời được biểu thị là lõi của Trái Đất. Vỏ Trái Đất dày 2.400 km là thứ ngăn cách những gì đã được mô tả là một nền văn minh riêng biệt với chúng ta sống bên ngoài lớp vỏ.
Nguồn gốc của lý thuyết này được thúc đẩy bởi cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Hành trình đến Trung tâm Trái Đất” của Jules Verne, xuất bản năm 1864. Ban đầu cuốn tiểu thuyết được xuất bản bằng tiếng Pháp, nhưng nó nhanh chóng được dịch ra các thứ tiếng khác nhau và được phân phối trên khắp thế giới. Cuốn sách thu hút nhiều sự chú ý đến nỗi vào năm 1867, Jules Verne đã xuất bản một phiên bản khác mở rộng chi tiết về tâm Trái Đất.
Câu chuyện của cuốn tiểu thuyết đại diện cho một đội thám hiểm đi xuống một miệng núi lửa tại Nam Cực, hướng tới trung tâm Trái Đất. Sau 2 tháng, nhóm thám hiểm cuối cùng đã đến được lõi Trái Đất, nơi họ khám phá ra một nền văn minh hoàn toàn mới được cung cấp năng lượng bởi Mặt Trời thu nhỏ – lõi Trái Đất. Nền văn minh này tiên tiến như thế giới của chúng ta vào thế kỷ 19, với sự chú trọng lớn vào cơ sở hạ tầng.
Đây là nơi mà các vấn đề bắt đầu, khi cuốn sách ngày càng trở nên phổ biến, một số người thực sự coi cuốn sách này không phải là một cuốn tiểu thuyết, mà như thể nó thực sự nêu ra những phát hiện mới. Điều này cũng thu hút sự chú ý của các nhà khoa học khác nhau được truyền cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết để thực sự tin rằng lý thuyết này có thể là sự thật.
Nhiều nhà văn đã bắt đầu một chiến dịch trung gian hóa “khám phá mới” này với phần còn lại của thế giới, giống như cách mà phương tiện truyền thông xã hội ngày nay đưa tin sai, nhưng với tốc độ chậm hơn rất nhiều.
Bằng chứng đầu tiên về điều này đã được công bố vào cuối thế kỷ 19 bởi một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực địa lý. Cuốn sách có tựa đề “Địa lý vật lý” được viết bởi Arnoldo de Azevedo, người viết về một thế giới bí ẩn dưới chân chúng ta với lập luận rằng các nhà khoa học thời đó không biết gì về những gì nằm dưới chân họ năm dặm.
Tác giả tiếp tục nói rằng các nhà khoa học chỉ đưa ra các lý thuyết và giả thuyết mà không có bất kỳ bằng chứng cứng rắn nào xác định độ tin cậy.
Azevedo cũng đưa ra giả thuyết khoa học của riêng mình đằng sau lý thuyết này. Khi Trái Đất vẫn đang hình thành như một hành tinh, phần lớn Trái Đất chỉ là dung nham mềm và do tốc độ ly tâm mà hành tinh tự quay quanh mình đã buộc dung nham từ trung tâm hoặc lõi của Trái Đất lắng xuống, do đó làm cho Trái Đất rỗng. Do lực ly tâm ở hai cực Trái Đất thấp hơn, các lỗ ở tâm rỗng cũng đã hình thành.
Bạn có tin hay không, nhưng thực tế có một phép tính hỗ trợ lý thuyết này. Tổng kích thước bề mặt hành tinh của chúng ta là 431,5 triệu km bình phương, sẽ tạo ra trọng lượng lớn hơn sáu lần so với trọng lượng thực của Trái Đất là 5,972 × 10²⁴ kg. Điều này có nghĩa là Trái Đất có thể rỗng (mặc dù nó có thể là một lời giải thích hợp lý).
Điều thú vị hơn nữa là thế kỷ 19 thực sự không phải là lần đầu tiên lý thuyết này được đề cập đến như một lý thuyết khoa học khả thi. Lý thuyết này được đề cập lần đầu tiên vào năm 1692 bởi Edmond Halley, một nhà nghiên cứu về chiêm tinh và toán học từ Đại học Oxford, người đã đưa ra ý tưởng rằng Trái Đất thực sự là một hành tinh rỗng.
Nếu chúng ta đi xa hơn nữa trong lịch sử, chúng ta sẽ thấy các đề cập đến các lý thuyết tương tự về Trái Đất rỗng bởi các học giả Hy Lạp cổ đại.
Quay trở lại thế kỷ 19, sau khi công trình của Azevedo được xuất bản, đã có một số lượng lớn các học giả ủng hộ lý thuyết này, hoặc các biến thể rất giống với lý thuyết này.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, lý thuyết này thực sự nhận được sự quan tâm của các học giả từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Một nhóm các nhà khoa học Nga đã phát hiện ra rằng Cực Bắc từ tính không được biểu thị bằng một điểm duy nhất mà là một đường dài gần 1.500 km đi qua sông địa cực cho đến tận Bán đảo Taimir từ Siberia.
Ngay cả các nhà khoa học Đức trước Chiến tranh thế giới thứ hai cũng đã nghiên cứu lý thuyết này nhưng đáng buồn là tất cả các tài liệu nghiên cứu đã bị thất lạc hoặc bị phá hủy trong chiến tranh.
Kể từ giữa thế kỷ 20, đã có những tác giả nhỏ hơn xuất bản về lý thuyết này, nhưng vào khoảng những năm 1970 khi cuộc cách mạng khoa học diễn ra, sự quan tâm đến lý thuyết này đã không còn nữa.
Lifehub tổng hợp
Nguồn bài viết